Tin tức
25/09/2022
Các dấu hiệu bệnh bạch biến

Bệnh bạch biến là một bệnh lý lành tính và không lây truyền. Khi mắc bệnh này, người bệnh xuất hiện những mảng da nhạt màu hơn những vùng còn lại của cơ thể. Việc nhận biết hình ảnh ban đầu của bệnh bạch biến giúp chẩn đoán và điều trị bệnh sớm.
1. Bệnh bạch biến là bệnh gì?
Bệnh bạch biến là một bệnh tế bào sinh sắc tố ở da bị phá hủy khiến da mất đi lớp sắc tố Melanin. Do đó hình ảnh bệnh bạch biến đặc trưng là vùng da bị bệnh trở thành màu trắng.
Bệnh bạch biến có khi có những đốm nâu xen kẽ, lông hoặc tóc trên vùng da bị bạch biến cũng có màu trắng.
Bệnh có thể kết hợp với một số bệnh lý khác kèm theo như đái đường, bệnh của chất tạo keo, các bệnh ác tính, thiếu máu kéo dài, bệnh lý về tuyến giáp, xơ gan…
Cơ chế sinh bệnh bạch biến rất phức tạp và chưa được xác định một cách rõ ràng. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng bệnh này có liên quan đến các yếu tố thần kinh – thể dịch, cơ chế rối loạn miễn dịch và tác nhân hóa chất.
2. Nguyên nhân gây bệnh bạch biến
Nguyên nhân chính gây nên bệnh bạch biến là do có sự giảm số lượng và chất lượng của những tế bào sắc tố ở da. Thông thường, các tế bào sắc tố có nhiệm vụ sản xuất ra các hạt melanin là sắc tố tạo nên màu của da của một người.
Khi bị mắc bệnh bạch biến, số lượng tế bào sắc tố của người bệnh sẽ ít hơn so với người bình thường. Đôi khi số lượng tế bào không thay đổi nhưng các tế bào hoạt động kém hiệu quả, tạo ra ít các hạt sắc tố hơn. Hậu quả là một vài vùng da bị nhạt màu hơn so với những vùng còn lại của cơ thể.
Hiện nay, vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân chính xác khiến cho số lượng và chất lượng tế bào sắc tố bị suy giảm. Một số yếu tố nguy cơ bao gồm:
2.1. Yếu tố miễn dịch
Một số người mắc các bệnh lý về tuyến thượng thận, tuyến giáp tuyến sinh dục hay gan tụy sẽ tồn tại trong cơ thể loại kháng thể có thể tiêu hủy các tế bào sắc tố ở da. Các tế bào này gây nên bệnh bạch biến. Vì thế, người bệnh có thể mắc kèm theo các bệnh lý ở các cơ quan như đã kể trên.
2.2. Yếu tố di truyền
Bệnh bạch biến có thể liên quan đến di truyền và tỷ lệ này khoảng 20%. Khi cha, mẹ hoặc người thân trong gia đình mắc bệnh thì con của họ có nhiều khả năng bị bạch biến hơn.
Bệnh bạch biến có thể do di truyền
2.3. Nguyên nhân khác
Một số giả thiết cho rằng tiếp xúc với các hóa chất từ bên ngoài như Phenol, Thiol… có thể gây ra tác động trực tiếp lên tế bào sắc tố và gây bệnh.
Một số thuốc ức chế hệ miễn dịch của cơ thể như nivolumab… cũng có thể khởi phát bệnh bạch biến.
Ngoài ra, bệnh lý nhiễm trùng, nhiễm siêu vi cũng được coi là nguyên nhân mắc bệnh bạch biến.
3. Phân loại thể bệnh bạch biến
Bệnh bạch biến được chia làm hai dạng chủ yếu là dạng khu trú và dạng lan tỏa.
Dạng khu trú:
- Bạch biến từng điểm: xuất hiện một hay nhiều dát giảm sắc tố tại một khu vực.
- Bạch biến thể đoạn: xuất hiện một hay nhiều dát giảm sắc tố, nằm dọc theo đường đi của dây thần kinh, thể bệnh này thường gặp chủ yếu ở trẻ em.
- Bạch biến niêm mạc: chỉ xuất hiện ở vùng niêm mạc.
Dạng lan tỏa:
- Bạch biến ở các cực: tổn thương xuất hiện ở các ngón tay, ngón chân và các hốc tự nhiên trên mặt.
- Bạch biến thông thường: các mảng da bị giảm sắc tố riêng rẽ, phân tán rộng rãi trên bề mặt da.
- Bạch biến hỗn hợp: tổn thương xảy ra ở các cực và phân tán toàn bộ cơ thể.
- Bạch biến toàn thể: giảm sắc tố da toàn cơ thể hoặc gần như toàn cơ thể, kết hợp cùng các hội chứng nội tiết. Đây là dạng hay thể bệnh thường gặp nhất.
4. Dấu hiệu bệnh bạch biến
Hình ảnh đầu tiên của bệnh bạch biến là sự xuất hiện của các đám da mất sắc tố. Triệu chứng bệnh tùy theo từng giai đoạn mà bệnh có biểu hiện khác nhau:
- Màu trắng nhạt: Khi bệnh ở giai đoạn đầu, đám sắc tố hơi phai màu và nhạt hơn so với phần da bình thường, phần lớn sắc tố vẫn còn ở vị trí da tổn thương, dấu hiệu bệnh bạch biến lúc này chưa rõ nét.
- Màu trắng sữa: Đây là giai đoạn tế bào hắc tố vùng ban trắng bị tổn thương khoảng 20% – 30% và vẫn tồn tại tới 70% – 80% sắc tố. Dấu hiệu bệnh bạch biến là vùng da bị bệnh có màu ban trắng giống với màu sữa và da bị tổn thương ở mức độ trung bình.
- Màu mây trắng: Lúc này chức năng tế bào hắc tố đã bị tổn thương lên đến 70% – 80% và sắc tố tồn tại chỉ còn 20% – 30%. Da có màu ban trắng tương tự với mây trắng, bị phai màu nặng, vị trí tổn thương còn lại ít sắc tố.
- Màu trắng sứ: Giai đoạn này sắc tố tồn tại chỉ còn 10% – 20% và chức năng tế bào hắc tố bị tổn thương 80% – 90%. Nguyên nhân là do bệnh đã bước vào giai đoạn rất nghiêm trọng nên da có màu sứ trắng.
Ngoài những thay đổi về sắc độ của vùng da bị bạch biến thì dấu hiệu bệnh bạch biến thường thấy còn có:
- Những vùng da bị bệnh bạch biến có ranh giới rõ rệt và viền da lành xung quanh sẫm màu hơn, thường đối xứng ở 2 bên cơ thể. Vùng da mắc bệnh không bị teo da, không gây đau hay ngứa rát. Ngoài trường hợp vùng da thương tổn bị mất sắc tố có màu trắng đều thì cũng có trường hợp xuất hiện những chấm màu nâu trên nền da trắng.
- Kích thước của vùng da bị bệnh bạch biến đổi rất nhiều. Ban đầu nó chỉ là chấm trắng nhỏ nhưng sau đó lan rộng và có thể liên kết với nhau tạo thành những đám rất lớn có bờ loang lổ, đôi khi có thể lan rộng hầu hết mặt da trên toàn bộ cơ thể người bệnh. Hình dạng của vùng da bị bệnh bạch biến có thể là hình bầu dục, hình tròn hoặc cũng có thể nhiều cạnh nham nhở giống như bản đồ.
- Vị trí và số lượng của đốm mất sắc tố dễ thay đổi, có thể gồm chỉ có một đốm hoặc nhiều đốm. Vị trí thường gặp là vùng mu bàn tay, cẳng tay, cổ tay, lưng, cổ, vùng mặt và vùng sinh dục.
- Tóc hoặc lông trên vùng da của những người bị bệnh bạch biến thường có màu trắng như cước.
- Vị trí xuất hiện vùng da mất sắc tố do bạch biến thường thường là mu bàn tay, mặt, lưng, cổ tay, cẳng tay, cổ và vùng sinh dục. Một số trường hợp đám mất sắc tố có thể ở vùng bớt, nốt ruồi hoặc vết bỏng từ trước.
- Bệnh tiến triển không theo diễn biến nên không thể biết thời điểm nào khởi phát. Mặt khác, dấu hiệu bệnh bạch biến có thể xuất hiện ngay sau một chấn thương về tinh thần hoặc về thể chất nặng; thường tiến triển mạn tính và có xu hướng tăng lên vào mùa hè đồng thời giảm đi vào thời điểm mùa đông.
Bệnh bạch biến thường xuất hiện ở vùng cổ và vùng mặt
Hiện nay chưa có cách điều trị khỏi hoàn toàn bệnh bạch biến nên cách chữa trị bệnh bạch biến thường dùng là sử dụng các loại thuốc uống, thuốc bôi, ghép da quang hóa trị liệu hoặc cấy tế bào sắc tố. Căn cứ theo độ tuổi, thời gian xuất hiện bệnh, mức độ bệnh và vị trí thương tổn mà đưa ra phương pháp điều trị bệnh phù hợp đối với từng người cụ thể.
Nếu có bất kỳ thắc mắc, băn khoăn nào về tình trạng bệnh bạch biến, bạn có thể lựa chọn dịch vụ chăm sóc da liễu để kết nối với Bác sĩ từ xa. Giải pháp khám từ xa qua cuộc gọi video với bác sĩ đang là một trong những phương pháp tiên tiến và hiện đại nhất trong năm 2022 giữa bối cảnh dịch bệnh và ô nhiễm môi trường đang leo thang ngày một nghiêm trọng.
Với AIviCare, bạn hoàn toàn có thể gặp ngay bác sĩ chỉ sau 5 phút và nhận tư vấn dứt điểm cho các các biểu hiện của da như: Bệnh zona người lớn; Phát ban (nổi mề đay người lớn); Bệnh vảy nến; Bệnh chàm; Bệnh trứng cá đỏ; Các vấn đề về nấm da; Phát ban, lang ben, hắc lào; Các vấn đề về mụn, nhọt; Nám…
AIviCare được phát triển bởi VinBrain (thành viên của tập đoàn Vingroup) với lõi công nghệ là trí tuệ nhân tạo (AI) mang lại nhiều tính năng ưu việt và vượt trội trong tư vấn chăm sóc sức khỏe từ xa cho người bệnh. Đây là một nền tảng chăm sóc sức khỏe trực tuyến tích hợp đầy đủ các chức năng cần có như:
- Tạo tài khoản nhanh chóng;
- Đăng nhập thông minh;
- Đặt hẹn trực tuyến;
- Kết nối với bác sĩ online ổn định…
Thêm vào đó, AIviCare còn mang lại nhiều tiện ích độc quyền như:
- MIỄN PHÍ kiểm tra X-quang ngực thẳng giúp chẩn đoán hơn 21 bệnh lý và các dấu hiệu nguy cơ trên ảnh X-quang ngực thẳng nhờ tích hợp sẵn DrAid (AI Trợ lý bác sĩ) với độ chính xác trên 90%, thời gian xử lý chỉ trong vòng 5s;
- AI chatbot thông minh giúp khách hàng nhanh chóng tìm được bác sĩ và các gói khám phù hợp nhất:
Nhanh tay tải App AIviCare để được theo dõi chăm sóc sức khỏe ngay hôm nay
- Link cài app trên hệ Google Play:
- Link cài app trên App Store:
Ghi chú: Đây là các nội dung y học mang tính tham khảo, không khuyến cáo khách hàng tự áp dụng. Chúng tôi không chịu trách nhiệm với các trường hợp tự điều trị mà không có sự tham vấn và chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.