Tin tức
25/09/2022
Nguyên nhân và các đặc điểm của bệnh bạch biến

Bệnh bạch biến đặc trưng bởi tình trạng giảm sắc tố da, khiến vùng da mắc bệnh nhạt màu hơn vùng da bình thường. Vậy nguyên nhân bệnh bạch biến là gì và bệnh bạch biến có nguy hiểm không?
1. Bệnh bạch biến là gì?
Bạch biến là bệnh lý gây mất hoặc giảm sắc tố ở da, khiến chúng nhạt màu hơn so với những vị trí bình thường khác trên cơ thể. Bên cạnh tình trạng nhạt màu da thì cả tóc hoặc/và lông ở vùng da tổn thương cũng có thể bạc màu theo. Ngoài việc giảm sắc tố thì vùng da bị bệnh bạch biến vẫn có những đặc điểm tương tự da bình thường khi hoàn toàn không sần sùi, nổi mụn nhọt hay nhăn nheo…
Bệnh bạch biến xảy ra ở ở mọi lứa tuổi, trong đó phổ biến nhất là trẻ em dưới 12 tuổi với tỷ lệ mắc bệnh khoảng 25-30%. Bên cạnh đó, tỷ lệ bệnh bạch biến ở cả 2 giới nam và nữ là tương đương nhau. Bệnh lý này có xu hướng xuất hiện phổ biến hơn ở vùng khí hậu nhiệt đới và người da màu có nguy cơ mắc bệnh cao hơn so những chủng tộc khác
2. Nguyên nhân bệnh bạch biến
Cơ chế bệnh sinh và nguyên nhân bệnh bạch biến đến nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ. Tuy nhiên cho đến thời điểm hiện tại các nhà khoa học đã xác định bệnh bạch biến là một bệnh lý tự miễn dịch do sự xuất hiện các kháng thể chống lại tế bào sắc tố (melanocyte). Tế bào này bị phá hủy trong quá trình tiến triển của bệnh bạch biến liên quan đến các vấn đề sau:
- Cơ địa di truyền: Nguyên nhân bệnh bạch biến này được chứng minh qua tiền sử gia đình của bệnh nhân với sự xuất hiện của kháng nguyên phù hợp tổ chức (hay Human Leukocyte Antigen hay gọi tắt là HLA). Tiền sử gia đình liên quan đến bệnh bạch biến chiếm tỷ lệ khoảng 20-30%. Các nghiên cứu cho thấy bệnh bạch biến có mối liên quan rõ với HLA-A30, HLA-DR4, HLA-CW6, HLA-CW7, HLA-DR6 và gen bạch biến được ghi nhận ở nhiễm sắc thể số 6;
- Thuyết thần kinh thể dịch (Neural Theory): Giải thuyết này được chứng minh thông qua yếu tố lâm sàng, xét nghiệm hóa sinh và quá trình quan sát siêu cấu trúc, bao gồm những thay đổi xảy ra trong diễn tiến của bệnh bạch biến thể đứt đoạn (Segmental Vitiligo) như tăng tiết mồ hôi tại vị trí tổn thương và quá trình tiếp xúc giữa tế bào sắc tố với các đầu mút tận cùng thần kinh. Những nghiên cứu gần đây đã chứng minh có sự bất thường trong quá trình tổng hợp và phóng thích Tetrahydrobiopterin và Catecholamin. Sự phóng thích bất thường của Catecholamin ở tận cùng thần kinh thực vật đã tác động và gây tổn thương tế bào sắc tố. Giả thiết này phù hợp với bệnh bạch biến thể đứt đoạn;
- Giả thuyết tự phá hủy (Self-destruction Hypothesis): Giả thuyết này cho rằng các tế bào sắc tố có thể bị phá hủy bởi phức hợp Phenolic sản sinh trong quá trình tổng hợp Melanin. Một số nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy sự phá hủy tế bào sắc tố bằng Phenol và các Catechol, đồng thời thống kê cho thấy những người có tiếp xúc với Catechol và Phenol (như công nhân) có thể phát triển rộng vùng da mất sắc tố;
- Rối loạn miễn dịch và tự miễn: Hiện nay, các nhà khoa học đã xếp bệnh bạch biến vào nhóm bệnh tự miễn với sự có mặt của kháng thể chống tế bào sắc tố và tăng theo mức độ tiến triển của bệnh. Ngoài ra, người các chuyên gia đã chứng minh bệnh bạch biến có liên quan đến một số bệnh tự miễn khác như viêm giáp Hashimoto, đái tháo đường phụ thuộc insulin (tuýp 1), Pelade (Alopecia Areata), viêm khớp dạng thấp, vảy nến, nhược cơ… với một số loại tự kháng thể đặc hiệu chống lại tế bào thận, tế bào tuyến ức, tế bào thành dạ dày, tế bào tụy và kháng thể chống tyrosinase. Những thiếu sót về hệ thống miễn dịch trong bệnh bạch biến bao gồm giảm đáp ứng khi tiếp xúc với các yếu tố để thay đổi số lượng và biến đổi chất lượng lympho T và tế bào diệt tự nhiên. Số lượng tế bào TCD4 suy giảm, bao gồm cả những tế bào đã hoạt hóa, dẫn đến giảm tỷ lệ TCD4/TCD8;
- Một số yếu tố kích hoạt bệnh bạch biến: Bao gồm những tác động từ môi trường bên ngoài như các stress xúc cảm (Emotional stress) hay chấn thương da… Trong đó, yếu tố tâm lý đóng một vai trò quan trọng, có thể ảnh hưởng đến sự tiến triển và kết quả điều trị bệnh bạch biến.
Rối loạn miễn dịch là nguyên nhân gây nên bệnh bạch biến
Tóm lại, nguyên nhân bệnh bạch biến vẫn chưa được thống nhất, tương đối đa dạng và đồng thời còn chịu tác động của nhiều yếu tố khác đã đưa đến sự tổn thương trực tiếp hoặc gián tiếp tế bào sắc tố và khiến vùng da nhạt màu hơn bình thường.
3. Triệu chứng của bệnh bạch biến
Tổn thương ban đầu của bệnh bạch biến có thể chỉ là một chấm trắng nhỏ kích thước vài milimet ở một vùng da nào đó của cơ thể, trong đó hay gặp là vùng da mặt, da môi, lòng bàn tay, cẳng tay, cẳng chân và bộ phận sinh dục. Sau đó điểm nhạt màu này có xu hướng lan rộng dần với tộc nhanh hay chậm tùy thuộc cơ địa từng bệnh nhân.
Tổn thương của bệnh bạch biến là những dát hay mảng màu trắng, to nhỏ khác nhau, có thể hình tròn hoặc bầu dục với ranh giới rõ, bằng với bề mặt da, không cộm, không đóng vảy và thường có viền sắc tố xung quanh. Lông tóc trên vùng da bạch biến có thể bạc màu theo hoặc không. Những tổn thương đặc trưng của bệnh bạch biến có thể xuất hiện ở một bên hoặc đối xứng hai bên, có thể ở vùng da đầu chi, bán niêm mạc hoặc vạch trên vết xước da (hiện tượng Koebner). Vùng da bị bạch biến không bị mất cảm giác tại chỗ và hoàn toàn không ngứa.
Dựa theo vị trí tổn thương, bệnh bạch biến chia ra thành những thể sau:
- Bạch biến thể khu trú (Localized Vitiligo): Tổn thương là một hoặc nhiều dát nhạt màu ở những vị trí độc lập trên cơ thể;
- Bạch biến thể lan tỏa (Generalized Vitiligo): Vùng da nhạt màu phân bố rộng rãi, có thể liên kết với nhau tạo thành hình ngoằn ngoèo và thường đối xứng 2 bên cơ thể;
- Bạch biến thể đầu chi hoặc mặt (Acral or Acrofacial Vitiligo); Tổn thương bạch biến khu trú ở vùng da đầu chi như đầu ngón tay, ngón chân hoặc vùng mặt như chóp mũi, da môi và quanh mắt;
- Bạch biến thể đứt đoạn (Segmental Vitiligo): Tổn thương giảm sắc tố da tạo thành một dải đi theo dây thần kinh cảm giác.
Theo xu hướng hiện nay bệnh bạch biến được phân thành 2 thể chính là thể đứt đoạn (Segmental Vitiligo-SV) và không đứt đoạn (Non-segmental Vitiligo-NSV).
4. Bệnh bạch biến có nguy hiểm không và điều trị như thế nào?
Thống kê cho thấy có khoảng 1% dân số thế giới bị bệnh bạch biến. Bệnh lý này hoàn toàn không lây nhiễm, lành tính và không gây ảnh hưởng nguy hiểm đến sức khỏe người bệnh. Tuy nhiên vấn đề quan trọng là tổn thương da của bệnh bạch biến sẽ khiến người bệnh cảm thấy tự ti về ngoại hình, từ đó ít nhiều ảnh hưởng đến tâm lý.
Do nguyên nhân bệnh bạch biến vẫn chưa được xác định chính xác nên việc điều trị còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là điều trị theo cơ chế và điều trị triệu chứng với nhiều phương pháp khác nhau tùy theo mức độ, thể bệnh, vị trí tổn thương, tuổi bệnh nhân…
Hiện nay, bệnh bạch biến được điều trị bằng những biện pháp sau đây:
4.1. Liệu pháp không xâm lấn
- Sử dụng thuốc bôi ngoài da như kem hoặc thuốc mỡ với thành phần chính là kháng viêm Corticosteroid có hoạt tính từ nhẹ, trung bình, mạnh đến rất mạnh. Bác sĩ sẽ chỉ định loại thuốc bôi phù hợp với vùng da tổn thương cũng như tuổi tác bệnh nhân;
- Các phương pháp vật lý như chiếu tia UVA, chiếu tia UVB dải hẹp hoặc laser. Gần đây liệu pháp UVB dải hẹp (bước sóng khoảng 311nm) và chiếu tia Laser (HeNe bước sóng 632.8nm) có thể giúp khôi phục những tổn thương thần kinh và giảm mức độ của bệnh bạch biến thể đứt đoạn;
- Quang hóa trị liệu bằng một số loại thuốc bôi tại chỗ như dung dịch Psoralen, Daivonex, Daivobet…;
- Quang hóa trị liệu kết hợp sử dụng thuốc toàn thân: còn lại là liệu pháp PUVA khi cho bệnh nhân sử dụng Psoralen trước 1.5-2 giờ, sau đó tiến hành chiếu tia UVA PUVA là một phương pháp điều trị hiện đại có hiệu quả khá tốt đối với bệnh bạch biến;
- Thuốc ức chế miễn dịch, bao gồm Corticosteroid toàn thân liều thấp hoặc Cyclosporine…;
- Thuốc làm mất sắc tố da: Khi tổn thương bạch biến lan rộng diện tích vùng da lành còn rất ít thì bác sĩ có thể chỉ định các thuốc làm mất sắc tố để cân bằng màu sắc da và đảm bảo thẩm mỹ hơn cho người bệnh.
4.2. Liệu pháp ngoại khoa
- Ghép da, bao gồm ghép da mỏng (tem thư), ghép da đục…;
Phẫu thuật cấy tế bào sắc tố…
4.3. Liệu pháp hỗ trợ khác
- Hạn chế cho da tiếp xúc với ánh nắng mặt trời;
- Sử dụng mỹ phẩm để che phủ vùng da nhạt màu;
- Hướng dẫn bệnh nhân hạn chế các yếu tố kích hoạt bạch biến như stress, thức ăn, các loại thuốc… để kiểm soát bệnh chậm tiến triển hoặc tái phát.
Người bệnh bạch biến nên hạn chế tiếp xúc với ánh nắng mặt trời
Nếu có bất kỳ thắc mắc, băn khoăn nào về tình trạng bệnh bạch biến, bạn có thể lựa chọn dịch vụ chăm sóc da liễu để kết nối với Bác sĩ từ xa. Giải pháp khám từ xa qua cuộc gọi video với bác sĩ đang là một trong những phương pháp tiên tiến và hiện đại nhất trong năm 2022 giữa bối cảnh dịch bệnh và ô nhiễm môi trường đang leo thang ngày một nghiêm trọng.
Với AIviCare, bạn hoàn toàn có thể gặp ngay bác sĩ chỉ sau 5 phút và nhận tư vấn dứt điểm cho các các biểu hiện của da như: Bệnh zona người lớn; Phát ban (nổi mề đay người lớn); Bệnh vảy nến; Bệnh chàm; Bệnh trứng cá đỏ; Các vấn đề về nấm da; Phát ban, lang ben, hắc lào; Các vấn đề về mụn, nhọt; Nám…
AIviCare được phát triển bởi VinBrain (thành viên của tập đoàn Vingroup) với lõi công nghệ là trí tuệ nhân tạo (AI) mang lại nhiều tính năng ưu việt và vượt trội trong tư vấn chăm sóc sức khỏe từ xa cho người bệnh. Đây là một nền tảng chăm sóc sức khỏe trực tuyến tích hợp đầy đủ các chức năng cần có như:
- Tạo tài khoản nhanh chóng;
- Đăng nhập thông minh;
- Đặt hẹn trực tuyến;
- Kết nối với bác sĩ online ổn định…
Thêm vào đó, AIviCare còn mang lại nhiều tiện ích độc quyền như:
- MIỄN PHÍ kiểm tra X-quang ngực thẳng giúp chẩn đoán hơn 21 bệnh lý và các dấu hiệu nguy cơ trên ảnh X-quang ngực thẳng nhờ tích hợp sẵn DrAid (AI Trợ lý bác sĩ) với độ chính xác trên 90%, thời gian xử lý chỉ trong vòng 5s;
- AI chatbot thông minh giúp khách hàng nhanh chóng tìm được bác sĩ và các gói khám phù hợp nhất:
Nhanh tay tải App AIviCare để được theo dõi chăm sóc sức khỏe ngay hôm nay
- Link cài app trên hệ Google Play:
- Link cài app trên App Store:
Ghi chú: Đây là các nội dung y học mang tính tham khảo, không khuyến cáo khách hàng tự áp dụng. Chúng tôi không chịu trách nhiệm với các trường hợp tự điều trị mà không có sự tham vấn và chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.